Bệnh sỏi mật - Nguyên nhân, triệu chứng và cách điều trị hiệu quả
Sỏi mật là bệnh mạn tính thường gặp ở người trưởng thành, tuổi càng cao càng dễ mắc bệnh. Nếu không chữa trị kịp thời và dứt điểm, sỏi mật có thể đưa đến biến chứng nguy hiểm.Vậy bệnh sỏi mật là gì? Nguyên nhân gây sỏi mật là gì? Dấu hiệu, triệu chứng của sỏi mật là gì? Bệnh sỏi mật có nguy hiểm không, có di truyền không? Cách điều trị bệnh sỏi mật như thế nào cho an toàn và hiệu quả nhất? Cùng đi sâu tìm hiểu về bệnh sỏi mật và cách chữa trị qua bài viết sau đây.

1. Bệnh sỏi mật là gì? Có những loại sỏi mật nào?
Sỏi mật là gì?
Sỏi mật là những viên sỏi, san sỏi nằm ở bên trong túi mật (tiếng Anh gọi là Gallstone). Túi mật là một bộ phận nối liền với gan và nằm ngay phía bên dưới gan. Túi mật là nơi dự trữ mật do gan bài tiết ra. Khi ăn thức ăn, túi mật có chức năng co bóp để đẩy dịch mật qua đường mật vào ruột non giúp tiêu hóa thức ăn. Những lắng đọng bất thường của các thành phần chính trong dịch mật sẽ hình thành nên bùn mật, sỏi mật, sạn mật. Sỏi mật thường gây ra đau bụng, viêm túi mật và viêm tụy.
Sỏi mật là bệnh rất thường gặp. Ước đoán khoảng 20% dân số thế giới sẽ bị sỏi mật trong cuộc đời của mình. Bệnh sỏi mật gặp nhiều ở nữ hơn nam và có xu hướng tăng dần theo tuổi. Nguyên nhân gây ra sỏi mật là bệnh viêm túi mật mãn tính, ứ đọng mật và nhiễm trùng túi mật. Hiện tượng táo bón cũng tạo ra cơ hội cho vi trùng đường ruột phát triển, dẫn đến viêm tá tràng, túi mật và ống mật, do đó nó làm cho mật dễ lắng xuống thành sỏi.
Có những loại sỏi mật nào?
– Sỏi sắc tố mật:
Sỏi sắc tố mật chủ yếu là canxi bilirubinate, có màu sậm, thường hình thành đám sỏi, cản tia X nhiều, hình thành khi bilirubine tăng, không liên hợp hoặc nhiễm vi trùng, nhiễm ký sinh trùng đường mật. Nguyên nhân: tuổi tác, ăn thiếu chất béo và protein, ứ đọng dịch mật, mật nhiễm trùng hoặc nhiễm ký sinh trùng, xơ gan, bệnh tán huyết, thiếu máu Địa Trung Hải, thiếu máu hồng cầu liềm.
– Sỏi cholesterol:
Sỏi cholesterol do cholesterol kết tinh trong dịch mật, khi nồng độ cholesterol trong mật cao, nồng độ muối mật thấp, có sự ứ đọng dịch mật và một số nguyên nhân khác. Nguyên nhân: do tuổi tác, ăn nhiều thức ăn có hàm lượng cholesterol cao, nhiều chất béo động vật, do sinh đẻ nhiều (phụ nữ), biến chứng từ một số bệnh tiêu hoá như bệnh Crohn, cắt đoạn hồi tràng, do dùng nhiều một số dược phẩm clofibrate, estrogen... Sỏi cholesterol thường đơn độc, không cản tia X và có màu nhạt.
– Sỏi hỗn hợp:
Được tạo thành khi hàm lượng cholesterol chiếm 30%-70% dịch mật. Sỏi cholesterol bao gồm ít nhất 60% là cholesterol và thường gặp ở Hoa Kỳ và Tây Âu. Sỏi sắc tố thì màu nâu hoặc đen do có nồng độ sắc tố mật cao và chiếm tỷ lệ trên 90% bệnh sỏi mật ở người Châu Á.
2. Nguyên nhân nào gây nên bệnh sỏi mật?
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự hình thành sỏi mật, hiểu rõ được những nguyên nhân này phần nào sẽ giúp bạn có cách phòng ngừa bệnh sỏi mật, sỏi túi mật hiệu quả. Vậy nguyên nhân gây sỏi mật là gì? Đối tượng nào có nguy cơ bị sỏi mật cao?
Nguyên nhân gây sỏi mật
Mật do gan tạo ra và được dự trữ trong túi mật. Những thành phần cơ bản trong mật là muối mật, bilirubin, và cholesterol. Sỏi mật được hình thành là do mất cân bằng các thành phần này. Cholesterol được giữ giới hạn bình thường là do nó hòa tan trong muối mật. Một sự gia tăng số lượng cholesterol trong mật làm quá khả năng hòa tan của muối mật sẽ dẫn tới hình thành sỏi cholesterol.
Tương tự vậy, sự giảm số lượng muối mật cũng thúc đẩy việc hình thành sỏi cholesterol. Sự giảm co bóp và túi mật rỗng, thường gặp ở thai kỳ, là một yếu tố quan trọng khác để hình thành sỏi cholesterol.
Sỏi sắc tố mật thường liên quan tới tình trạng nhiễm trùng mạn tính ở đường mật. Điều này thường thấy nhất ở các quốc gia Châu Á, nơi mà tình trạng nhiễm ký sinh trùng đường mật thường gặp. Những bệnh nhân mắc bệnh về máu có thể gây ra phá hủy hồng cầu nhiều làm gia tăng số lượng bilirubin trong mật, do đó gây ra hình thành sỏi sắc tố mật.
Tóm lại có 3 nguyên nhân chủ yếu gây ra sỏi túi mật là: Sự mất cân bằng của các thành phần cholesterol, bilirubin trong quá trình sản xuất, vận chuyển dịch mật trong gan – nơi tiết ra dịch mật; sự ứ trệ dịch mật kéo dài và yếu tố viêm đường mật cũng như nhiễm khuẩn dịch mật.
Đối tượng có nguy cơ bị sỏi mật
Các yếu tố nguy cơ được xem là tiền đề cho sự hình thành và phát triển của sỏi túi mật. Nếu bạn có những yếu tố sau đây, bạn sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn:
– Độ tuổi từ 40 trở lên
Người có tuổi tác càng cao, càng có nhiều khả năng bị sỏi mật.
– Nữ giới
Nữ giới có nguy cơ mắc bệnh sỏi mật cao hơn nhiều so với nam giới. Nguyên nhân là do nội tiết tố nữ estrogen kích thích gan tăng sản xuất cholesterol và bài tiết vào trong dịch mật tạo thành sỏi.
– Thừa cân hoặc béo phì
Những người thừa cân với chỉ số khối cơ thể (BMI) > 25 có nguy cơ cao phát triển sỏi mật.

– Tiền sử gia đình bị sỏi mật
Nếu trong gia đình có người thân mắc bệnh sỏi mật, bạn sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những người khác.
– Chế độ ăn giàu chất béo
Chế độ ăn uống quá dư thừa chất béo và cholesterol là một trong những nguyên nhân phổ biến dẫn đến sự phát triển của sỏi túi mật.
– Xơ gan
Sỏi túi mật xuất hiện ở 16,8% người bệnh xơ gan. Mặc dù cơ chế sinh bệnh chưa được xác định rõ ràng, so các nhà khoa học cho rằng là do liên quan đến việc gan giảm tổng hợp, vận chuyển muối mật và sự suy giảm khả năng vận động của túi mật.
– Rối loạn tiêu hóa hoặc bệnh Crohn (bệnh viêm ruột mãn tính)
Hai chứng bệnh này có thể khiến cơ thể tái hấp thu muối mật kém, làm tăng nguy cơ mắc sỏi túi mật.
– Giảm cân đột ngột
Nếu bạn giảm cân quá nhanh chóng có thể làm phá vỡ sự cân bằng của các thành phần có trong dịch mật. Đồng thời, tình trạng thiếu hụt chất béo có thể làm giảm các cơn co bóp của túi mật, khiến dịch mật bị ứ trệ, tạo điều kiện để cholesterol lắng đọng và kết tụ thành sỏi trong túi mật.
– Tác dụng phụ một số loại thuốc
Nếu sử dụng một số loại thuốc trong thời gian dài như thuốc kháng sinh, thuốc tránh thai hoặc liệu pháp estrogen liều cao, bạn cũng sẽ có nguy cơ cao bị sỏi mật.
– Giảm vận động đường mật
Yếu tố nguy cơ này thường gặp ở những người làm công việc văn phòng, ít vận động, ngồi nhiều hoặc ở những người được nuôi ăn qua đường tĩnh mạch. Tình trạng này khiến dịch mật bị ứ trệ, tạo điều kiện cho các thành phần lắng đọng và hình thành sỏi.

3. Biểu hiện, triệu chứng của bệnh sỏi mật là gì?
5 triệu chứng phổ biến của bệnh sỏi mật
Đau, sốt, vàng da, rối loạn tiêu hóa và gan to bất thường là 5 triệu chứng phổ biến nhất của bệnh sỏi mật. Bệnh cạnh đó bệnh còn có các triệu chứng khác như:
– Đau
Trong trường hợp điển hình đau đột ngột xuất hiện, thành cơn dữ dội, đau vùng hạ sườn phải lan lên vai phải hoặc sau lưng, đau làm người bệnh lăn lộn trên giường, cũng có thể đau làm người bệnh không dám thở mạnh. Trong trường hợp không điển hình, đau chỉ âm ỉ hoặc tức nặng ở hạ sườn phải, đau đôi khi ở vùng thượng vị và lan lên ngực.
– Sốt
Là do nhiễm khuẩn đường mật, nếu không có nhiễm khuẩn thì không có sốt, có thể sốt cao, rét run nhưng cũng có khi sốt nhẹ, sốt thường đi kèm với đau, có khi sốt kéo dài.
– Vàng da
Da và củng mạc mắt vàng là do tắc mật, xuất hiện khi sỏi ở ống mật chủ, ống gan hoặc trong gan tùy theo mức độ tắc mật mà vàng nhẹ hay vàng đậm. Trong trường hợp chỉ có sỏi túi mật đơn thuần thì không gây vàng da.
– Rối loạn tiêu hóa
Một số bệnh nhân bị sỏi mật có những triệu chứng như không thích ăn mỡ, hay ợ chua, ợ hơi hoặc đầy bụng. Những triệu chứng không rõ ràng này là những triệu chứng có liên quan tới sỏi. Trong những trường hợp này, điều quan trọng là phải loại trừ những bệnh khác cũng có triệu chứng tương tự.
– Gan to bất thường
Gan to là triệu chứng thường gặp của sỏi mật, mức độ gan to phụ thuộc vào mức độ tắc mật, sỏi túi mật không gây gan to. Tắc mật do sỏi trong ống mật chủ có thể xuất hiện túi mật to.
Để chẩn đoán đúng bệnh sỏi mật
Dựa vào triệu chứng điển hình kinh điển đó là: đau, sốt và vàng da. Xét nghiệm có thể thấy tăng bạch cầu trong máu, bilirubin máu tăng khi có tắc mật. Siêu âm, chụp cắt lớp vi tính và chụp cộng hưởng từ rất có giá trị giúp chẩn đoán sỏi mật. Đối với sỏi túi mật, siêu âm là phương pháp rẻ tiền mà có giá trị cao trong chẩn đoán.
4. Bệnh sỏi mật có nguy hiểm không?
Sỏi mật khi không được loại bỏ ra khỏi cơ thể, về lâu dài sẽ gây là nhiều biến chứng nguy hiểm có thể gây thương tổn nghiêm trọng đến sức khỏe và các bệnh khác nguy hiểm khác, thường là bệnh liên quan đến hệ thống gan mật như:
– Viêm đường mật
Sỏi ống mật chủ, sỏi đường mật trong gan là các nguyên nhân chính gây viêm đường mật với cơ chế và các triệu chứng tương tự như viêm túi mật cấp. Tiên lượng bệnh kém hơn nếu bệnh nhân gặp phải một trong số các vấn đề: suy thận, áp xe gan, xơ gan, trên 50 tuổi. Nếu được phát hiện sớm, sử dụng kháng sinh ngay thì có đến 75% các trường hợp bệnh được chữa khỏi. Ngược lại, viêm nhiễm có thể tiến triển nặng gây nguy hiểm đến tính mạng. Lúc này phẫu thuật mổ hở hoặc nội soi sẽ được chỉ định để lấy sỏi, khơi thông dòng chảy dịch mật
– Viêm túi mật cấp
Là biến chứng thường gặp của bệnh sỏi túi mật. Sỏi hình thành, bịt kín phần miệng nối nơi túi mật đổ vào đường dẫn mật gây tắc nghẽn mật, dẫn đến viêm hoặc nhiễm khuẩn túi mật, hoặc cả hai. Nhiễm khuẩn xảy ra ở khoảng 20% các trường hợp viêm túi mật cấp, là tình trạng bệnh lý nghiêm trọng, có thể đe dọa tính mạng nếu lan sang các bộ phận khác của cơ thể (nhiễm trùng huyết). Bệnh nhân thường được chỉ định mổ cắt túi mật cấp cứu để hạn chế nguy cơ vỡ túi mật. Các triệu chứng của viêm túi mật cấp có nhiễm khuẩn bao gồm sốt cao, tim đập nhanh, nhịp thở tăng, rối loạn tâm thần…
Một số các trường hợp viêm túi mật cấp nếu không được điều trị triệt để có thể gây viêm túi mật mạn. Bên cạnh đó, nó còn gây ra nhiều rủi ro khác như hoại tử hoặc áp xe túi mật, lỗ hở làm rò rỉ dịch mật hoặc vỡ túi mật có thể gây viêm phúc mạc rất nguy hiểm nếu không được cấp cứu kịp thời.

– Áp xe gan – đường mật
Vi khuẩn sinh sôi và di chuyển ngược dòng do dịch mật bị ứ đọng do sỏi tạo thành các ổ mủ trong đường mật, trong gan gây áp xe. Bệnh thường khởi phát đột ngột, trầm trọng không hề có dấu hiệu cảnh báo trước.
Áp xe gan – đường mật là một biến chứng rất nặng do đó cần được cấp cứu và điều trị tích cực. Người bệnh cần được nghỉ ngơi tuyệt đối, truyền dịch và điện giải để bù nước cùng với việc sử dụng các thuốc giảm đau, kháng sinh. Khi các triệu chứng của bệnh không thuyên giảm ngày càng nặng nề hơn như choáng, ngất, đau nhiều, sốt cao, rét run… bệnh nhân cần được phẫu thuật. Tuy nhiên phẫu thuật cũng rất khó được thực hiện do thể trạng người bệnh không tốt cộng thêm các ổ áp xe nhỏ, khó phát hiện để loại bỏ.
– Viêm tụy
Viêm đường mật là nguyên nhân chính gây ra biến chứng viêm tụy. Các enzym tiêu hóa trong dịch tuỵ khi lưu thông từ ống tụy đến tá tràng bị ứ đọng lại do sỏi từ đường mật rơi xuống ống tụy ở phần ngã ba đường mật tụy (đường cong Oddi). Các enzym này sẽ tấn công làm tổn thương và gây viêm tụy nặng nề. Để điều trị, ngoài các biện pháp tạm thời như truyền dịch để bù dịch, ổn định huyết áp; nhịn ăn uống để cho tuyến tuỵ nghỉ ngơi; bác sỹ có thể cân nhắc thủ thuật nội soi mật tuỵ ngược dòng để lấy sỏi.
– Ung thư túi mật
80% số người bị ung thư túi mật khi siêu âm phát hiện có sỏi mật. Nhưng ngược lại sỏi mật rất hiếm khi gây ung thư, ung thư túi mật là một biến chứng ít gặp. Các triệu chứng của ung thư thường không xuất hiện cho đến khi bệnh đã tiến triển đến giai đoạn nặng. Một số người bệnh có các dấu hiệu cảnh báo như giảm cân, thiếu máu, người mệt mỏi, ăn uống không ngon…
Nếu ung thư được phát hiện sớm và chưa lan rộng thì tỷ lệ sống sót sau năm năm có thể lên đến 70% nhờ phẫu thuật cắt túi mật. Trường hợp ung thư túi mật đã lan sâu, biện pháp phẫu thuật cắt túi mật sẽ không mang lại nhiều hiệu quả. Giải pháp cuối cùng được đưa ra là xạ trị, hóa trị để làm giảm triệu chứng và kéo dài tuổi thọ cho người bệnh.
Một số yếu tố khác làm gia tăng nguy cơ ung thư
+ Polyp túi mật: Một số người cần thiết phải cắt túi mật nếu polyp có kích thước lớn hơn 15 mm và nghi ngờ nguy cơ ung thư.
+ Viêm xơ đường mật: Rất hiếm gặp do sỏi gây viêm và để lại sẹo tại đường mật, có thể làm tăng từ 7 – 12% nguy cơ ung thư.
+ Bất thường đường giao nhau giữa đường mật và ống tụy.
+ Vôi hóa túi mật (túi mật sứ).
5. Bệnh sỏi mật có di truyền không?
Sỏi mật có di truyền không? Gen nào gây bệnh sỏi mật? Theo nhận định của Giáo sư Tilman Sauerbruch của bệnh viện đại học Bonn: "Bệnh sỏi mật hình thành do 70-80 % yếu tố môi trường như chế độ ăn uống, lối sống không khoa học gây nên, phần còn lại là do gen quyết định". Do đó, tỉ lệ gia đình có nhiều người cùng mắc bệnh này khá cao. Nghiên cứu trên các cặp song sinh cũng cho thấy yếu tố di truyền làm tăng ngay cơ mắc sỏi túi mật.

Từ những dự đoán bước đầu, nhóm nghiên cứu Đại học Bonn cùng các đồng nghiệp từ Romania đã tiến hành nghiên cứu trên 178 phụ nữ và nam giới đều bị sỏi mật trong 84 gia đình. Kết quả cho thấy có 21,4 % người bệnh mang một biến thể gen đặc biệt làm tăng đáng kể nguy cơ phát triển bệnh là ABCG8; ở nhóm chứng không mắc bệnh thì chỉ 8,6% có kiểu gen này. Đột biến này có tỉ lệ di truyền lên tới 10% ở các nước Châu Âu.
ABCG8 là một trong các gen tham gia vào quá trình vận chuyển năng lượng và chuyển hóa cholesterol ở tế bào gan, ruột, đại tràng. Đột biến gen kích thích bơm cholesterol hoạt động thường xuyên, liên tục với tốc độ cao, làm giảm hấp thụ cholesterol ở ruột và tăng vận chuyển từ gan vào hệ thống đường mật, gây mất cân bằng thành phần dịch mật, tạo điều kiện cho sự kết tinh cholesterol. Do đó, những người mang gen đột biến ABCG8 sẽ có nguy cơ mắc sỏi mật cao hơn 2-3 lần và tăng khả năng tái phát sỏi sau cắt bỏ túi mật.
Ngoài ra, nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Y tế Ấn Độ cũng chứng minh sự biến đổi cấu trúc gen apolipoprotein A1 và C3 (thành phần protein trong HDL) cũng gây rối loạn chuyển hóa lipid và tăng nguy cơ sỏi mật.
Dựa trên những kết quả nghiên cứu, giáo sư Lammert tin tưởng rằng trong tương lai sẽ có thuốc tác động lên gen ABCG8 để giảm hoạt động quá mức của bơm cholesterol, nhưng cần thiết phải có các nghiên cứu sâu hơn, vì không chỉ có một gen đột biến tham gia vào cơ chế tạo sỏi mật. Đồng thời, những phát hiện này cũng giúp ích cho quá trình phòng ngừa và điều trị sỏi túi mật bằng cách xét nghiệm sàng lọc kiểu gen đột biến. Nhưng trước mắt, người bệnh nên có lối sống lành mạnh, luyện tập thường xuyên, chế độ ăn uống khoa học và giải pháp từ thiên nhiên để tránh xa vấn đề bệnh tật, trong đó có bệnh lý đường mật.
6. Cách điều trị bệnh sỏi mật như thế nào?
Sỏi mật là những lắng đọng bất thường của các thành phần trong dịch mật bao gồm: cholesterol, bilirubin, muối mật và kết tụ thành khối rắn chắc, nó có thể là một viên hoặc nhiều viên. Bệnh rất phổ biến xong lại thường bị chẩn đoán muộn do sỏi tiến triển âm thầm trong nhiều năm không triệu chứng khiến người bệnh khó nhận ra.
Chỉ tới khi sỏi di chuyển hoặc gây viêm, làm cản trở sự lưu thông của dịch mật thì các triệu chứng mới xuất hiện. Nếu người bệnh không điều trị sỏi mật kịp thời thì có thể dẫn đến hoại tử túi mật, viêm phúc mạc mật, rò mật vào ống tiêu hóa, áp xe gan đường mật, viêm tụy cấp, chảy máu đường mật, xơ gan… thậm chí có nguy cơ tử vong.
Bệnh sỏi mật có thể được chữa khỏi nếu như được điều trị kịp thời kết hợp với chế độ ăn uống khoa học để hạn chế các nguy cơ gây bệnh và phòng ngừa sỏi tái phát sau điều trị. Ở nước ta, hiện nay có hai phương pháp điều trị sỏi mật phổ biến là điều trị bằng Tây y và Đông y.
Điều trị sỏi mật bằng Tây y

- Thuốc làm tan sỏi:
Hầu hết không có tác dụng với sỏi gan (sỏi sắc tố, thành phần chính bilirubin), bởi vì thuốc chỉ có tác dụng với sỏi cholesterol. Các thuốc tán sỏi mà bạn có thể tham khảo đó là thuốc giảm đau, thuốc hướng cơ, thuốc làm tan sỏi Acid ursodesoxycholic…. Những loại thuốc này được chỉ định dùng khi sỏi còn nhỏ và chưa gây ra biến chứng gì. Với những viên sỏi to, nằm rải rác hoặc đã xuất hiện biến chứng thì phẫu thuật là giải pháp cuối cùng.
- Tán sỏi quá da
Tán sỏi bằng sóng, làm tan sỏi trực tiếp bằng hóa chất, dùng với sỏi to, gây đau nhiều hoặc gây viêm túi mật, đây là phương pháp hiện nay thường dùng phổ biến, rút ngắn thời gian nằm viện và hồi phục sức khỏe nhanh
- Nội soi mật tụy ngược dòng
Phương pháp này chỉ thích hợp cho người bệnh chưa bị chít hẹp đường mật. Ưu điểm là tiến hành nhanh, ít xâm lấn, giải quyết kịp thời tình trạng ứ trệ dịch mật.
- Phẫu thuật mở hở lấy sỏi
được áp dụng nhiều hơn cả do phối hợp được các kỹ thuật hiện đại như lấy sỏi bằng rọ, tán sỏi nội soi qua ống mềm, nong và đặt stent đoạn đường mật bị tắc hẹp. Nhưng phương pháp này khó khăn ở chỗ là không thực hiện được cho người bệnh có bệnh lý về tim mạch hoặc rối loạn đông máu.
- Cắt bỏ túi mật
Cắt túi mật có thể là cần thiết nếu bị đau từ sỏi ngăn chặn dòng chảy của mật, hoặc những trường hợp sỏi đã quá lớn, gây đau nhiều hoặc gây viêm túi mật. Cắt túi mật thường được thực hiện bằng cách chèn một máy quay phim nhỏ và các công cụ phẫu thuật đặc biệt thông qua bốn vết rạch nhỏ để xem bên trong bụng và loại bỏ túi mật. Các bác sĩ gọi đây là cắt bỏ túi mật nội soi. Trong một số trường hợp, một vết rạch lớn có thể được sử dụng để cắt bỏ túi mật. Điều này được gọi là cắt bỏ túi mật mở.
- Phẫu thuật cắt một phần gan
Đây là giải pháp cuối cùng, khi mà tất cả các phương pháp trên không thể tiến hành hoặc sỏi nằm quá sâu trong nhu mô gan. Một phần của lá gan bị cắt có thể gây ảnh hưởng đến khả năng sản xuất dịch mật, đào thải độc tố, chuyển hóa glucose… vì vậy, chỉ những trường hợp nặng bệnh nhân mới được điều trị bằng giải pháp này.
Điều trị sỏi bằng Tây Y luôn là phương pháp điều trị bằng y học hiện đại. Tuy nhiên, các phương pháp điều trị nêu trên chỉ là chữa “phần ngọn”, không giải quyết được tận gốc của căn bệnh nên tỉ lệ sỏi tái phát rất cao và chi phí cho điều trị khá tốn kém, nhất là đối với những bệnh nhân nghèo.
Điều trị sỏi mật bằng Đông y

Theo đông y, sự hình thành sỏi nguyên nhân không chỉ là sự ứ trệ tại hệ thống đường mật mà còn liên quan mật thiết tới sự mất cân bằng chuyển hóa tại can (gan), sự hoạt động kém hiệu quả của tỳ vị (hệ tiêu hóa). Tương ứng với nguyên nhân hình thành sỏi thì đông y có các phép trị bệnh như: “sơ can”– tăng cường chức năng gan, “lợi đởm” – lợi mật, “hành khí chỉ thống” – giảm ứ trệ, giảm đau, “thanh nhiệt lợi thấp” – kháng khuẩn kháng viêm và “bài thạch” – làm nhỏ sỏi. Điều trị bệnh sỏi mật bằng phương pháp Đông y sẽ cho kết quả tốt nhất vì vừa không phải phẫu thuật, thuốc đơn giản, vừa có hiệu quả cao, đặc biệt chữa được tận gốc nên không sợ bị tái phát.
50% người bệnh sau khi tiến hành các biện pháp can thiệp lấy sỏi, sau 3 – 10 năm phải nhập viện do sỏi tái phát. Có những trường hợp phải tiến hành phẫu thuật 2 – 3 lần, nên làm gia tăng nguy cơ xuất hiện biến chứng do đường mật trong gan đã bị tổn thương. Thế nhưng, đông y lại có thể khắc phục được các nhược điểm này.
7. Bị bệnh sỏi mật nên và không nên ăn gì?
Người bị sỏi mật nên hạn chế ăn mỡ vì chất này ảnh hưởng đến chức năng gan, mật và dạ dày. Khi ăn nhiều mỡ, mật xuống ruột không đều, kích thích túi mật co bóp quá mạnh, một phần mật tham gia cùng cholesterol tạo sỏi.
Giảm mỡ: Cần hạn chế các thực phẩm cholesterol như phủ tạng động vật, trứng...
Tăng đạm để tăng tạo tế bào gan đã bị tổn thương, chống thoái hóa mỡ tế bào gan.
Giàu đường bột: Thức ăn này dễ tiêu, lại không ảnh hưởng đến mật. Nhiều chất xơ lại giúp tiêu hóa tốt tránh táo bón.
Giàu vitamin C và nhóm B (để tăng chuyển hóa chất mỡ và đường bột). Dùng rau và hoa quả tươi rất tốt.
Tỷ lệ giữa các chất dinh dưỡng đạm, mỡ, đường ở người trưởng thành bình thường là 1/0,75/5 còn ở người bị sỏi mật nên là 1/0,5/5.

Thức ăn nên dùng: Nước quả, hoa quả tươi các loại, rau tươi, bánh kẹo ít trứng bơ, các loại thịt cá nạc như nạc thăn lợn, thịt bò, cá quả, cá chép, các loại đậu đỗ như đậu tương, đậu xanh, đậu đen. Ngoài ra có một số thức ăn lợi mật như nghệ, lá chanh, có thể dùng được.
Để kích thích túi mật co bóp nhẹ nhàng, có thể dùng một ít chất béo dễ tiêu như bơ rồi đến dầu thảo mộc sống, mỡ gà vịt.
Thức ăn không nên dùng: Trà, cà phê, cacao, chocolate; thịt cá nhiều mỡ, dầu cọ, dầu dừa, phủ tạng động vật. Hạn chế ăn lòng đỏ trứng.